Có hai người đi bắt cua, họ bỏ cua Việt và
cua Mỹ vào hai thùng khác nhau. Một người bảo người kia chỉ cần đậy nắp thùng
cua Mỹ, không cần đậy nắp thùng của Việt. Được hỏi tại sao, người này giải
thích:
“Cua Mỹ khác hẳn cua Việt vì nó biết
cách nằm chồng lên nhau, cho các con khác bò lên người để ra khỏi miệng thùng,
còn cua Việt Nam thì con nào vừa định ngoi lên đã có con bên cạnh níu chân kéo
xuống nên không bao giờ lên đến miệng thùng, khỏi cần đậy nắp!”
Một câu hỏi được đặt ra: Cùng những cơ hội
giống nhau, tại sao Đại Hàn, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore ngóc đầu lên được,
còn Thái Lan, Philippines, Việt Nam, Mã Lai, Miến Điện… không ngóc đầu lên nổi?
Phải chăng vì “bản chất dân tộc”?
Người Mỹ nhìn người Việt
Viện Nghiên Cứu Xã Hội Học Hoa Kỳ (American Institute for Social Research)
sau khi nghiên cứu đã nói lên 10 đặc tính căn bản của người Việt, xin tạm dịch
như sau:
1.- Cần cù lao động nhưng dễ
thỏa mãn.
2.- Thông minh, sáng tạo khi
phải đối phó với những khó khăn ngắn hạn, nhưng thiếu những khả năng suy tư dài
hạn và linh hoạt.
3.- Khéo léo nhưng ít quan tâm
đến sự hoàn thiện cuối cùng các thành phẩm của mình.
4.- Vừa thực tế vừa có lý tưởng,
nhưng lại không phát huy được xu hướng nào thành những nguyên lý.
5.- Yêu thích kiến thức và hiểu
biết nhanh, nhưng ít khi học sự việc từ đầu đến cuối, nên kiến thức không có hệ
thống hay căn bản. Ngoài ra, người Việt không học vì lợi ích của kiến thức (lúc
nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện hay vì những công việc tốt).[when small, they study because of their
families; growing up, they study for the sake of prestige or good jobs]
6. Cởi mở và hiếu khách nhưng sự
hiếu khách của họ không kéo dài.
7. Tiết kiệm, nhưng nhiều khi
hoang phí vì những mục tiêu vô nghĩa (vì sĩ diện hay muốn phô trương).[to save face or to show off].
8.- Có tinh thần đoàn kết và
giúp đỡ lẫn nhau chủ yếu trong những tình huống khó khăn và nghèo đói, còn
trong điều kiện tốt hơn, đặc tính này ít khi có.
9.- Yêu hòa bình và có thể chịu
đựng mọi thứ, nhưng thường không thẳng thắn vì những lý do lặt vặt, vì thế hy
sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ.
10.- Và sau cùng, thích tụ tập
nhưng thiếu nối kết để tạo sức mạnh (một người có thể hoàn thành một nhiệm vụ
xuất sắc; 2 người làm thì kém, 3 người làm thì hỏng việc).[one person can complete a task excellently;
2 people do it poorly, and 3 people make a mess of it].
Những phân tích trên đây cho chúng ta thấy
người Mỹ đã hiểu rất rõ người Việt. Tại sao người Việt lại có những đặc
tính như thế này?
Người xưa cũng đã nhận ra
Học giả Trần Trọng Kim (1883 – 1953)
khi viết bộ Việt Nam Sử Lược, ấn hành lần đầu tiên năm 1919, cũng đã phân tích
khá rõ ràng những đặc tính của người Việt và những yếu tố tạo nên những đặc
tính đó. Đa số người Việt lớn tuổi, khi còn nhỏ đều đã được học bộ sử này.
Trong phạm vi một bài báo, chúng tôi chỉ xin trích lại dưới đây một số đoạn
chính ông viết về đặc tính của người Việt.
Trong bài tựa, ông nói ngay:
“Người mình có ý lấy chuyện nước nhà
làm nhỏ mọn không cần phải biết làm gì. Ấy cũng là vì xưa nay mình không có
quốc văn, chung thân chỉ đi mượn tiếng người, chữ người mà học, việc gì cũng bị
người ta cảm hóa, chứ tự mình thì không có cái gì là cái đặc sắc, thành ra thật
rõ như câu phương ngôn: “Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng!”
“Cái sự học vấn của mình như thế, cái
cảm tình của người trong nước như thế, bảo rằng lòng vì dân vì nước mở mang ra
làm sao được?”
“Thời đại Bắc thuộc dai dẳng đến hơn
một nghìn năm, mà trong thời đại ấy dân tình thế tục ở nước mình thế nào, thì
bấy giờ ta không rõ lắm, nhưng có một điều ta nên biết là từ đó trở đi, người
mình nhiễm cái văn minh của Tàu một cách rất sâu xa, dẫu về sau có giải thoát
được cái vòng phụ thuộc nước Tàu nữa, người mình vẫn phải chịu cái ảnh
hưởng của Tàu. Cái ảnh hưởng ấy lâu ngày đã trở thành ra cái quốc túy của mình,
dẫu ngày nay có muốn trừ bỏ đi, cũng chưa dễ một mai mà tẩy gội cho sạch được.
Những nhà chính trị toan sự đổi cũ thay mới cũng nên lưu tâm về việc ấy, thì sự
biến cải mới có công hiệu vậy.”
Ở Chương VI nói về “Kết Quả của
Thời Bắc Thuộc”, ông có nhận định rõ hơn:
“Nguyên nước Tàu từ đời Tam Đại đã văn minh
lắm, mà nhất là về đời nhà Chu thì cái học
thuật lại càng rực rỡ lắm. Những học phái lớn như là Nho giáo và Lão giáo, đều
khởi đầu từ đời ấy. Về sau đến đời nhà Hán, nhà Đường, những học phái ấy thịnh
lên, lại có Phật giáo ở Ấn độ truyền sang, rồi cả ba đạo cùng truyền bá đi khắp
cả mọi nơi trong nước. Từ đó trở về sau nước Tàu và những nước chịu ảnh hưởng
của Tàu đều theo tông chỉ của những đạo ấy mà lập ra sự sùng tín, luân lý và
phong tục tương tự như nhau cả…”
“Khi những đạo Nho, đạo Khổng, đạo
Phật phát đạt bên Tàu, thì đất Giao châu ta còn thuộc về nước Tàu, cho nên
người mình cũng theo những đạo ấy. Về sau nước mình đã tự chủ rồi, những đạo ấy
lại càng thịnh thêm, như là đạo Phật thì thịnh về đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê và
nhà Lý, mà đạo Nho thì thịnh từ đời nhà Trần trở đi.
“Phàm phong tục và chính trị là do sự
học thuật và tông giáo mà ra. Mà người mình đã theo học thuật và Tông giáo của
Tàu thì điều gì ta cũng noi theo Tàu hết cả. Nhưng xét ra thì điều gì mình cũng
thua kém Tàu, mà tự người mình không thấy có tìm kiếm và bày đặt ra được cái gì
cho xuất sắc, gọi là có cái tinh thần riêng của nòi giống mình, là tại làm sao
? ...
“Người mà cả đời không đi đến đâu, mắt
không trông thấy cái hay cái dở của người, thì tiến hóa làm sao được? Mà sự học
của mình thì ai cũng yên trí rằng cái gì đã học của Tàu là hay, là tốt hơn cả:
từ sự tư tưởng cho chí công việc làm, điều gì mình cũng lấy Tàu làm gương. Hễ
ai bắt chước được Tàu là giỏi, không bắt chước được là dở. Cách mình sùng mộ
văn minh của Tàu như thế, cho nên không chịu so sánh cái hơn cái kém, không tìm
cách phát minh những điều hay tốt ra, chỉ đinh ninh rằng người ta hơn mình, mình
chỉ bắt chước người ta là đủ.
“Địa thế nước mình như thế, tính chất
và sự học vấn của người mình như thế, thì cái trình độ tiến hóa của mình tất là
phải chậm chạp và việc gì cũng phải thua kém người ta vậy.”
***
Trong nước, tiêu chuẩn của cuộc sống là có
nhà sang cửa rộng, có xe hơi, có con đi du học ngoại quốc...
Tiêu chuẩn ở hải ngoại cũng thế thôi:
Đi dâu cũng nghe khoe nhà trên cả triệu bạc, xe loại sang trọng nhất, con đang học
bác sĩ, dược sĩ, kỹ sư... Gần như không nghe ai khoe những công trình đang
nghiên cứu hay thực hiện để đưa con người, cộng đồng và đất nước đi lên. Tất cả
chỉ tập trung vào hai tiêu chuẩn là “đẹp mặt” và “ấm thân”.
Với mục tiêu như thế, chúng ta không
ngạc nhiên khi nhìn ra phố Bolsa, thủ đô của VNCH nối dài, đa số các cơ sở kinh
doanh lớn đều không phải của người Việt. Tuy bên ngoài người Việt gốc Hoa đứng
tên, nhưng đàng sau là các bang hội của Tàu. Thương xá Phúc Lộc Thọ vốn được
coi là “Quốc Hội VNCH” ở Bolsa, nhưng phía trước là tượng các danh nhân Trung
Hoa và tên thương xá được viết vừa bằng chữ Tàu vừa bằng chữ Việt. Houston cũng thế thôi.
Nếu mỗi gia đình và mỗi cá nhân chỉ
lấy những mục tiêu như trên làm mục tiêu của cuộc sống và truyền từ đời nọ sang
đời kia, còn lâu cộng đồng và đất nước với ngóc đầu lên được.
Nhìn qua người Hoa
Trong khi người Việt nhiễm văn hoá Trung Quốc đã trở thành như đã nói
trên, người Hoa khi ra hải ngoại lại thích ứng rất nhanh nên vươn lên khá nhanh
và khá cao. Những đặc tính của người Hoa ở hải ngoại được mô tả như sau:
1.- Cần cù, việc gì cũng làm
2.- Tiết kiệm, không sống khoe khoang
hay xa hoa.
3.- Khởi sự từ buôn bán nhỏ.
4.- Đơn vị kinh tế gia đình: Gia
trưởng đóng vai trò quan trọng. Tài sản có thể truyền từ đời nọ sang đới kia.
5.- Hình thành những xí nghiệp không
theo một hình thức chặt chẽ, không theo những quy luật nhất định, tất cả đều
dựa vào chữ TÍN.
6.- Không làm những công việc có tính
cách phức tạp hay quá to lớn, chỉ thích kinh doanh vào những lãnh vực đơn giản.
Khi cần làm ăn lớn thường chia ra làm nhiều công ty con.
7.- Móc nối với chính quyền và cá nhân
khác rất giỏi. Không tham gia chính quyền hay đảng phái nào, nhưng thường nắm
được các nhân vật có địa vị quan trọng có thể bao che hay hỗ trợ cho làm ăn.
(Tại Indonesia, người Hoa chỉ chiếm từ 3% đến
4% dân số, nhưng làm chủ 70% tài sản ở đất nước này với khoảng 160 trong số 200
xí nghiệp lớn của Indonesia. Gia đình ông Liem Sioe Liong, làm chủ xí nghiệp
Salim với số vốn khoảng 9 tỷ mỹ kim, nhờ quen biết lớn với Suharto).
8.- Không thích tranh tụng, kiện cáo.
Thường tìm cách dàn xếp mỗi khi có đụng chạm hay bị bắt vì vi phạm luật pháp.
9.- Phạm vi hoạt động gần như không biên giới.
10.- Thích ứng rất nhanh với những
biến đổi của thời cuộc.
Trong bài “Mạng lưới kinh tế của người
Hoa hải ngoại”, ông Phạm Văn Tuấn đã nhận thấy như sau về các hoạt động kinh
doanh của người Hoa ở hải ngoại:
“Khi bắt đầu bước vào ngành thương
mại, các người Hoa hải ngoại đã nhận được sự giúp đỡ từ các nhóm, các bang hay
các cộng đồng của họ. Các hội tương trợ này được tổ chức căn cứ vào gia đình,
hay nguồn gốc địa phương, hay thổ ngữ, chẳng hạn như các bang người Hẹ, Quảng
Đông, Triều Châu, Phúc Kiến. Các hội hay các bang này đã hoạt động như một thứ
ngân hàng nhờ đó người Hoa có thể mượn tiền, trao đổi tin tức, tuyển mộ nhân
công, giới thiệu thương nghiệp, hay thương lượng các dịch vụ.
Người Hoa hải ngoại thường tôn trọng
chữ Tín, họ làm ăn bằng ước hẹn miệng và sự tin cẩn lẫn nhau, và họ không cần
phải ký kết các văn bản, các giao kèo. Nếu một thương gia nào vi phạm lời hứa,
người đó sẽ không bị truy tố ra pháp luật mà bị ghi vào sổ đen của các nhóm,
các bang, đây là một tệ hại hơn, vì tất cả mạng lưới làm ăn của các cộng đồng
người Hoa đều sẽ biết rõ sự việc, và việc kinh doanh của người vi phạm kể như
bị chấm dứt.”
Số vốn của người Hoa hiện đang sống ở
ngoại quốc được ước lượng khoảng 4.000 tỷ USD.
Quay lại nhìn mình
Cuộc kiểm tra năm 2010 cho thấy ở Mỹ
hiện nay người Hoa chiếm 1%, còn người Việt là 0,5%, tức 1.548.449. Người Việt
ở Cali là
581.946 nguời.
Tại Little Saigon ở Orange County,
được coi thủ đô của VNCH nối dài, thành trì chống cộng của thế giới tự do và
tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á, có đến 3 chính phủ và ba ban đại diện cộng
đồng: Ba chính phủ là chính phủ Nguyễn Hữu Chánh, chính phủ Đào Minh Quân và
chính phủ Hồ Văn Sinh (thay thế Nguyễn Bá Cẩn). Ba ban đại diện cộng đồng là
cộng đồng Nguyễn Xuân Vinh, cộng đồng Nguyễn Tấn Lạc và cộng đồng Nguyễn Xuân
Nghĩa. Cộng Đồng này đang chửi cộng đồng kia là tiếm danh.
Mặc dầu lực lượng hùng hậu như thế,
nhưng khi nhóm VietWeekly chưa đến 10 người nổi lên ủng hộ Hà Nội giữa phố Little Saigon, chọc tức các đoàn
thể chống cộng và cộng đồng mà chẳng ai làm gì được.
Trong khi đó, các “chiến sĩ chống
cộng” vẫn tiếp tục chụp mũ nhau không ngừng nghỉ trên các diễn đàn.
Rất nhiều “nhân tài” của người Việt đang
chuẩn bị ra tranh cử các chức vụ dân cử tại địa phương, thành phố, tiểu bang và
có thể liên bang, trong cuộc bầu cử sắp đến. Mục tiêu được mô tả là để bảo vệ
và nói lên tiếng nói của cộng đồng.
Trái lại, chúng tôi không thấy có một
tổ chức chính trị nào của người Tàu hoạt động ở đây và không nghe nói họ sẽ đưa
ai ra tranh cử.
Tôi nhớ lại trong cuộc bầu cử Tổng
Thống Mỹ năm 2004, lúc đó liên danh George W. Bush đang tranh với liên danh
John Kerry. Tôi có nhờ ông Tăng Kiến Hoa dẫn đến gặp một vài bang trưởng Tàu
xem họ bầu cho ai. Họ cười và nói: Quy luật bầu cử là phù thịnh bất phù suy. Cứ
thấy ai chắc thắng là đóng tiền cho người đó, không cần biết đường lối họ như
thế nào. Họ đã nhận tiền là khi đắc cử họ sẽ giúp mình.
Nếu hai người ngang ngửa, đóng tiền
cho cả hai.
Tôi hỏi người Tàu không có ai ra tranh
cử dân biểu hay nghị sĩ gì sao. Họ cũng cười và nói: Người mình có vào được
quốc hội cũng chẳng làm được chuyện mình muốn. Cứ thấy người nào có thế lực là
đóng tiền cho người đó.
Thì ra người Tàu bầu cử bằng tiền chứ
không phải bầu cử bằng phiếu như người Việt!
Chúng ta không mong người Việt có
những nhà phát minh làm thay đổi nhân loại như John V. Blankenbaker (phát minh
ra máy vi tính 1971), Bill Gates, Steve Jobs..., chúng ta chỉ mong người Việt
biết quan tâm đến cộng đồng, đất nước và nhân loại nhiều hơn. Nhưng điều này
quá khó. Đúng như người Mỹ đã nhận xét.
Chúng ta trông chờ vào thế hệ sắp đến,
không bị vướng mắc với quá khứ, học được nhiều cái hay của xứ người, sẽ đưa
cộng đồng và đất nước đi vào một hướng đi mới tốt đẹp hơn.
Copy có cắt cho ngắn bớt của nhà báo Lữ Giang ( Cali )