Thứ Tư, 29 tháng 7, 2015

LÁ CỜ THÊU SÁU CHỮ VÀNG

- Trần Quốc Toản bóp cam... bằng tay nào?
Câu hỏi đó không phải do tôi rắn mắt trớ trêu bày ra đâu, mà là ở một diễn đàn nọ, do các bạn trẻ đôi mươi đặt ra đó!
Sặc cười với những lời giải đáp của họ. Người bảo thuận tay nào bóp tay nấy; kẻ lại lý giải chi tiết hơn, rằng cứ theo thói quen… quay tay mà suy ra thì biết thuận tay nào! Nhưng thuận tay nào thì thuận, các bạn cùng nhất trí: phải là trái cam thúi thì mới dễ dàng bị Hoài Văn hầu bóp nát như vậy, he he!
Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục chép: "… Lúc ấy có Hoài Văn hầu là Quốc Toản cũng theo xa giá. Vì còn ít tuổi, không được dự bàn việc quân, Quốc Toản lấy làm hổ giận lắm, trong tay cầm quả cam, không biết bóp nát ra lúc nào; khi đã lui về, cùng với hơn ngàn người gia đồng và thân thuộc sắm sửa binh khí, chiến thuyền, kéo cờ đề sáu chữ: Phá cường địch báo hoàng ân (强敵报皇恩). Kịp lúc quan quân đánh nhau với quân Nguyên, Quốc Toản thường xông pha đi trước quân lính, quân giặc trông thấy là phải tránh lui, không ai dám đối địch".
Chuyện quân giặc khiếp sợ viên tiểu tướng này không biết có thật hay không, nhưng theo Nguyên sử thì Quốc Toản bị họ giết ở sông Như Nguyệt trong cuộc kháng Nguyên lần thứ hai. Sử Tàu mà, có khi họ ghi nhầm viết bậy không chừng, mà tôi đoán láo: chắc họ còn chả biết Trần Quốc Toản thiếu niên anh hùng của Nam quốc là… đứa nào, hơ hơ!
Nên nhớ, quân đội thời Trần chủ yếu là gia binh, do các nhà có của tự thành lập, tự trang bị quân nhu hậu cần, triều đình không cung cấp hỗ trợ cho đồng xu cắc bạc. Cậu thiếu niên Trần Quốc Toản có thân thế mờ mịt mơ hồ, mỗi sách nói một phách, thôi thì tôi theo thuyết cho rằng Trần Quốc Toản là con của Trần Bá Liệt, cháu gọi Trần Thái tôn bằng chú ruột, gia tư giàu có đi, nhưng thử hỏi ức vạn cỡ nhiêu mà có được cả ngàn gia binh, kiêm cả thủy lục, để thành lập đội “thiếu niên quân”, đủ sức góp công cùng các bậc vương hầu đánh giặc?
Thử gẫm mà xem, mỗi lần quân Nguyên kéo sang, vua quan đều chạy tháo thân bỏ cả kinh thành cung điện, khiến dân gian cũng hoảng hốt bỏ nhà bỏ cửa mà trốn, cái đó sau này sử ta gọi là kế “thanh dã” (vườn không nhà trống); rồi sau này có tụi cũng làm y chang vậy, kêu bằng “tiêu thổ kháng chiến”. Chỉ khi quân giặc rút đi, ta mới đuổi theo đánh vài trận vuốt đuôi, vậy đội quân kia của thiếu niên Quốc Toản có được mấy cơ hội đụng độ, mà khiến đoàn quân của các danh tướng Thoát Hoan, Ô Mã Nhi phải kiêng sợ đến nỗi... không dám đối địch?
Thôi thì kệ chuyện oai phong của viên tiểu tướng, cái chính tôi muốn nói là về lá cờ có thêu sáu chữ vàng kia. Không biết ở thế kỷ 13, nghề thêu ở nước ta phát triển như nào; nhưng cờ trận thời xưa thì hiếm có lá cờ nào ghi nhiều chữ như vậy, đây có lẽ là một kỷ lục, lá cờ trận có nhiều chữ nhất Á Đông thời xưa chăng?
Về cờ, người ta thường nghĩ đến vuông vải ngoài tiệm chạp phô, giá sáu chục bạc. Cái đó là quốc kỳ nha mấy cha. “Cờ” không phải chỉ thứ đó đâu, mà còn nhiều loại lắm: Cờ quốc gia, cờ tổ chức (như cờ Hồng thập tự, cờ Mặt trận chẳng hạn), rồi cờ đạo (là cờ của các tôn giáo: cờ Phật, cờ Vatican, cờ Cao Đài, cờ Hòa Hảo, v.v…). Còn thời xưa, ta học theo thói Tàu, cũng có nhiều loại cờ lắm, ra trận lại càng phải cờ xí quy củ để phân biệt.
Thoạt đầu, cờ trận chỉ thêu hình hổ báo hung hãn để thị oai, về sau, để giản tiện, người ta mới thêu chữ. Khi ra trận, cờ phải thêu quốc hiệu, ví dụ: bên Tàu thì thêu chữ Hán chữ Đường, bên ta thì đề quốc tính là Lý hoặc Trần.
Ngoài ra, có "mao tiết" là đại kỳ do nhà vua trao cho soái tướng ra quân (ý phó thác cho trọng trách cầm quân toàn quyền định đoạt việc binh), Cờ “mao” () là cờ có cắm lông đuôi con bò tót vào cán; cờ “tiết” () cũng tương tự như cờ mao, có thêm tua ở đầu ngọn. kèm theo đó thường là lá cờ soái thêu họ của viên chủ soái. Ví dụ Nhạc Phi của Nam Tống, ra trận thì giương cờ có một chữ “Nhạc” ; cũng có khi người ta không thêu họ mà thêu tên hiệu hoặc chức tước của mình lên đó, như Sấm vương Lý Tự Thành, người diệt Sùng Trinh nhà Minh, cờ đề một chữ Sấm (). Tùy theo oai danh ông tướng, có khi quân địch chỉ nhác thấy chữ thêu trên cờ là đã rủn lòng nản chí rồi.
Mỗi viên chiến tướng chỉ huy một đạo binh cũng được phép có cờ thêu quý tánh của mình trên đó, cờ này gọi là “xí” (), tức cờ phiên hiệu của mỗi đơn vị tác chiến, nhưng thường thì các viên tướng lục lục thường tài chưa mấy ai nghe danh, họ thích dùng cờ của soái gia hơn. Lá cờ của Trần Quốc Toản, nếu có, ắt phải thuộc loại cờ “xí” này. Mà có khi cờ xí, cờ phiên, không cần phải thêu chữ thêu hình, chỉ dùng màu sắc theo ngũ hành để bày trận trước sau tả hữu (Rồi trong quân ngũ, còn đặt ra “cờ hiệu”, nhỏ hơn, thường có hình tam giác, dùng để ra hiệu lịnh tiến thoái. Thời xưa, kiếm đâu ra bộ đàm với điện đài, toàn chỉ nhờ vào trống chiêng và cờ hiệu để điều động quân lính mà thôi).
Cờ xí thuở xưa, là để đưa ra thông điệp về lai lịch của đội quân, càng giản tiện càng oai phong. Mục đích của nó cốt để PHÂN BIỆT với các đội quân khác, chứ không phải chỗ để đặt TUYÊN TRUYỀN hay quảng cáo. La Quán Trung kể lại, quân Tào thấy cờ đề chữ “Quan” chữ “Trương” bên Thục là xôn xao, bớt đi mấy phần nhuệ khí rồi. Cờ chiến tối kỵ thêu nhiều chữ, vì một lẽ đơn giản: đọc không được. Chẳng lẽ người ta đọc xong chữ này, lại phải căng mắt ra chờ gió lật tiếp chữ kia để đọc hay sao, ai mà rảnh dữ? Qui cách cờ tôi không rõ chính xác bao lớn, nhưng phải vừa tay cho một người cầm mà khỏi bị... té ngã khi có gió mạnh.
Người lính cầm cờ là linh hồn của đạo quân, chung quanh anh ta luôn có người để bảo vệ và thay thế. Chẳng những vậy, anh lính cầm cờ kia ngoài sức khỏe, còn phải có kỹ năng riêng, dùng luôn quân kỳ làm vũ khí giao tranh. Cờ thêu chữ nhỏ quá thì sút hẵn oai phong, thời đó lấy đâu ra ống nhòm để đọc chữ trên cờ?
Mà cờ của Hoài Văn hầu có những sáu chữ, làm thành cặp câu đối luôn, lại phải thêu cỡ to, cho người ta đọc được từ xa (ít ra cũng phải nhỉnh hơn tầm tên bắn chút đỉnh), thì quân ngũ nào mang vác cho nổi? Vác cờ ra trận là để đánh giặc, chứ phải đâu căng biểu ngữ mít-tinh tuần hành mừng quân ta giải phóng miền Nam chúng ta cùng quyết tiến bước?
Cho nên, xin lỗi quý vị nha, “Phá cường địch báo hoàng ân” chỉ là slogan dùng để quảng cáo, như kiểu các khách sạn tửu điếm dùng để treo trước cửa hiệu thì được, chứ mà mang ra trận, ai coi cho? Nên có thể nói như vầy: Hoài Văn hầu trong cơn phấn khích, đã thốt ra lời thề như trên để tỏ ý quyết ra trận lập công, vậy còn nghe lọt; chứ thêu luôn sáu chữ vàng ra trận thì còn khuya nha, nghỉ cho khỏe đi Tám Tàng, kekeke!
By: VINHHUY LE


Thứ Bảy, 25 tháng 7, 2015

Chúc Đại tướng khỏe !

Dạo này thiên hạ quan tâm đến ông cũng nhiều, theo những cách nhiều khi cũng không hay mấy. Thôi thì ngồi trên cao thì gió cũng lạnh, chuyện ấy ông chắc rõ hơn ai hết.
Nhưng xét một cách công bằng thì tôi thấy ông cũng là một đại tướng hợp cách. Ông xuất thân từ những bậc thấp nhất trong quân ngũ. Đọc tiểu sử thì ông từng làm tiểu đội trưởng, trung đội trưởng từ ngày đất nước còn chiến tranh. Với những cấp bậc quân ngũ đó, ông phải trực tiếp cầm súng đánh trận thật sự với những người lính trơn chứ không thể làm sỹ quan văn phòng được (tôi đọc sách, xem phim nhiều tôi biết ^^). Ông cũng được phong danh hiệu anh hùng quân đội vì thành tích chiến đấu ngay từ thời chiến, lúc mới chỉ là trung đội trưởng, chứ không phải sau này khi chức ông to, nhà nước mới xét tặng, vậy nên tôi tin danh hiệu anh hùng của ông là hàng thật - tuy rằng như tiểu sử chép lại thì số lính Mỹ bị ông giết cũng hơi nhiều, có thể do công tác tuyên truyền thời đó cũng quá, nhưng trực tiếp cầm súng giết địch thì đúng là sự thật.
Tiến trình sau đó của ông trong quân đội, tôi thấy rất tiêu chuẩn. Ông đi qua lần lượt các vị trí chỉ huy: đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, tư lệnh sư đoàn rồi tư lệnh quân khu, cũng học hành bài bản trong các học viện quân sự, kết hợp với những giai đoạn làm sỹ quan tham mưu. Xét về mặt công tác trong quân đội, ông là một quân nhân rất toàn diện.
Từ ngày ông làm Bộ trưởng Quốc phòng đến giờ đã gần 10 năm, Quân đội Nhân dân VN vẫn được người dân tin tưởng. Đầu tư hiện đại hoá quân đội, hai quân chủng được ưu tiên nâng cấp vũ khí là Phòng không - Không quân và Hải quân, chứng tỏ ông có cái nhìn khách quan, không thiên lệch cho Lục quân là nơi ông xuất thân.
Nhiều người ông ưa ông mấy, vì cách phát ngôn của ông không làm người ta khoái, thậm chí còn chửi ông "thân Tàu". Tôi cũng không thích mấy cái phát biểu của ông mấy, vì nó "không chính trị gia", lại thật thà quá. Nhưng ông là tướng, không phải chính khách, nên cũng chả sao. Là dân đen, tôi sợ nhất là quân đội ta có loại tư lệnh lẻo mép, mị dân, nên chân phương một tí như ông lại thấy yên tâm hơn. Ít ra ông sẽ không húng chó muốn lập công gây chiến với láng giềng để kiếm thêm danh vọng cho mình - nhất là với dạng láng giềng phương Bắc đông tới 1,3 tỷ người như TQ.
Điểm lại những gì quân đội đã làm được trong hai nhiệm kỳ bộ trưởng của ông, tôi thấy rất ổn. VN đã xây dựng được quan hệ hợp tác quốc phòng tốt với quân đội Hoa Kỳ, Nhật Bản, nhưng vẫn duy trì được liên hệ truyền thống với người Nga và giữ quan hệ với TQ không xấu đi. Chúng ta không bị mất đảo nào, cũng không có trận chiến nào buộc phải đánh. Với nhân dân, thế là được.
Mấy hôm nay, nghe những tin đồn về ông, tôi cũng rất sợ nếu nó là sự thật. Nếu đúng, nó có thể là dấu hiệu của những cơn bão tố dữ dội mà người thiệt hại vẫn lại là nhân dân. Hôm nay đọc báo, thấy ông bình an về nhà, tôi lại tiếp tục tin tưởng thế hệ con cái tôi sẽ có một tương lai không buộc phải ra trận, như những gì chúng tôi đang được hưởng từ năm 1989 đến nay.
Đại tướng là để cầm quân, quân đội ta dù tinh nhuệ nhưng nếu không cần phải đánh trận vẫn là tốt nhất. Ông cũng không cần phải trở thành danh tướng lưu vào sử sách để sau này được đặt tên trên đường phố đâu ông ạ. Vì mỗi danh tướng được tạo ra đều kéo theo cái chết của nhiều binh sỹ lắm.
Chúc ông khoẻ 

 By Hoang Trong Hieu

CHUYỆN "NÀNG THƠ"

Số mình cũng lạ, rất hay được làm "nàng thơ".
Mình "vào thơ" lần đầu tiên trong đời là của thằng bạn cấp 3, tả mỗi da mình trắng mà chiếm chỗ tới 4 câu. Bài này dài, vẽ chân dung hết cả lớp. 
Lên đến đại học. Ngày ấy ngố, ko chú ý nhiều đến nhan sắc như giờ. Anh lớp trên dắt bài thơ vào vở, đại khái mơ màng chàng nàng. Sau vài lần đong đưa chả thấy anh lấn tới, nên cũng thôi luôn, chỉ hơi mắc míu, tên mình gắn gì đến mùa Xuân...
Riêng bài thơ thì trân trọng nâng niu, giữ mãi. Gặp lại anh sau 1 thập kỉ. Mang mắc míu hỏi. Anh ngẩn ra một tẹo rồi bảo, con khỉ, hồi ấy tao mê con Xuân Dung (cháu cố nhà văn Anh Đức), thế ra tao nhét lộn vào vở mày à?
Sau này toàn bạn gái tặng thơ. Đứa nào cũng tả mình trong sâu thẳm là người hiền lành, yếu đuối, buồn bã, cô đơn...trong khi mình vẫn chửi bậy xa xả như hát hàng ngày trên blog.
Khoảng cách giữa hai đời chồng ngắn, nhưng cũng kịp cho một anh tặng vài bài, rất nghi  tỏ tình. Ko dám chắc bởi anh viết toàn nước đôi, bảo yêu cũng phải mà bảo ko  cũng ko sai. Anh hiện vẫn đang là người của công chúng nên ko tiện trích lên đây.
Có một xấp thơ chép tay nhưng, trái lệ thường,  chưa đọc hết bao giờ. Không phải vì  đương kim có chồng nên đoan trang. Gì chứ ngoại tình tư tưởng thì mình thường trực mà mối tình bền bỉ nhất là với công tước Bolkonsky của Chiến tranh và hòa bình. Ngất ngây chàng cho đến 17 khoảnh khắc mùa Xuân hết rất lâu. Ngay giờ U60 nhắc lại, vẫn xốn xang với hình ảnh chàng cô đơn một mình trong rừng bạch dương tuyết phủ.
Tiếp chuyện vì sao ko đọc hết xấp thơ.
Chàng mang đến cơ quan tặng. Nghĩ chàng gửi bài đăng báo, dúi vào  xấp bản thảo trên bàn, bẵng đi mất. Đoàn vào Sài gòn diễn lần sau mới lục tìm, để có cái ăn nói. Lúc xé phong bì  tá hỏa  đề tựa Riêng tặng em yêu. Nhớ đại khái đến bài thứ một chục gì đó,  chàng còn vẫn ngất ngây  ngày nhớ đêm mong hoa Hồng. Bài thứ 11 thì có chuyện: chép y sì bài trước, chỉ chữa những chữ  Hồng nhung thành  Cúc vàng.
Mình và nghệ sĩ Hoàng Cúc phe nhau trách chàng. Cũng là nhẹ nhàng trách yêu thôi, vì chàng cực hiền (lại còn đẹp trai nữa-vẻ đẹp manly mà  showbitch giờ tuyệt chủng).
Từ ngày chơi phây, số người tặng thơ bằng tổng quá khứ nhân đôi.
Biết rất ít nhau ngoài đời thật, vậy mà hiểu mình hơn nhân tình lưu niên, toàn làm mình khóc.

Thứ Năm, 23 tháng 7, 2015

BA MƯƠI CHƯA PHẢI LÀ TẾT

Vụ án oan Nguyễn Thanh Chấn tưởng như đã tới hồi kết. Nhưng những thông tin tường thuật phiên toà xét xử vụ giết người của Lý Nguyễn Chung khiến cho tôi có cảm giác hình như vụ án chưa thể dừng lại. Đúng như ông bà ta thường nói "30 chưa phải là tết".
1.
Trong phiên toà này, dư luận rất quan tâm tới nhân chứng mới xuất hiên là bà Nguyễn Thị Thu Hà. Thực ra lời khai của bà Hà trước Toà chưa đáng tin cậy bởi không có bằng chứng cụ thể nào nhưng có nhiều điều rất đáng suy nghĩ. Thứ nhất, tại sao bà Hà lại tự nguyện đứng ra làm chứng lật lại một vụ án giết người khi mà hung thủ đã đứng ra nhận tội? Động cơ nào, lương tâm, trách nhiệm công dân hay thù hằn cá nhân? Thứ hai, nếu bà Hà khai đúng thì được gì, phải chăng chỉ được tiếng thơm "gió thoảng mây bay", đổi lại là phải đối mặt với nguy hiểm bởi sự hận thù của các thế lực muốn vụ án đi theo sắp đặt của họ. Còn như khai sai thì hậu quả cũng rất khó lường, không những bị cả xã hội chê cười, bưới móc, xỉa sói mà còn có thể phải lãnh sự trừng phạt của pháp luật. Xét cho cùng, đằng nào bà Hà cũng thiệt nhưng bà vẫn làm. Lý giải ra sao về vấn đề này?
2.
Gác qua chuyện bà Hà, không có chuyện này thì vụ án còn lắm chuyện phải bàn.
Tại toà, bị cáo Chung tỏ ra rất bình tĩnh, tự tin khai mình là hung thủ duy nhất. Chung khai mang sẵn con dao trong người, thấy nạn nhân có tiền nên nảy sinh ý định giết người để cướp. Chung không chỉ đâm nạn nhân mười mấy nhát mà còn đuổi theo túm tóc nạn nhân rồi đập đầu xuống đất, nhúng đầu nạn nhân xuống nước, lấy gối đè lên mặt... Lúc gây án Chung mới 14 tuổi, một thằng bé nhà quê chừng ấy tuổi có đủ lực, đủ ý thức, đủ ý chí để thực hiện hành vi giết người một cách chuyên nghiệp như vậy?
Câu hỏi cần đặt ra là lúc đó Chung cao bao nhiêu, nặng bao nhiêu, nạn nhân cũng cao bao nhiêu, nặng bao nhiêu mà Chung có thể giết nạn nhân quá dễ dàng? Nên nhớ những người buôn bán ở nông thôn thường là "thứ dữ", hiền lành khó làm nghề này. Dù thế nào đi nữa, nạn nhân cũng có phản kháng, không chịu bó tay để cho một thằng bé mới 14 tuổi tha hồ đâm chém, đánh đập, nhất là lúc phải đối mặt với cái sống cái chết.
Đánh giá qua khía cạnh tâm lý cũng rất khó hiểu việc Chung ra tự thú khi vụ án đã kết thúc sau 10 năm, hung thủ đã bị bắt và bị kết án, không còn bị áp lực bức bách bởi sự truy đuổi của cơ quan pháp luật. Có đúng là do lương tâm cắn rứt? Rất khó tin. Theo những gì thể hiện tại toà, mới 14 tuổi mà Chung đã rất hung dữ, sau vụ giết người Chung còn hăm doạ giết người thân vì không cho mượn tiền. Môt con người vốn có bản năng như vậy thì câu chuyện cắn rứt lương tâm cũng có thể có nhưng thật sự là khó như "đi lên giời".
Người đời thường nói "hổ dữ không ăn thịt con". Tuy nhiên trong vụ án này lại nảy ra cái chuyện người thân của Chung chỉ chăm chăm quy tội cho Chung. Tai sao thế nhỉ? Vì cái gì mà họ lại làm trái với luân thường đạo lý?

3.
Tất cả những điều nêu trên cũng là nhưng vấn đề cần được giải quyết bằng khám nghiệm hiện trường, thực nghiêm lại hành vi giết người của Chung, bằng so sánh khám nghiệm tử thi, thu hồi vật chứng (nhất là con dao), đối chiếu lại hồ sơ của bản án cũ và cả việc lý giải về tâm sinh lý. Đáng tiếc là cho tới giờ những điều này chưa đươc đặt ra mổ xẻ trước toà, nếu có thì cũng rất lớt phớt, mờ mịt.
LÊ THANH TÂM