Thứ Ba, 26 tháng 2, 2013

Hiến pháp: yêu cầu và kiến nghị?




Kiến nghị sửa đổi hiến pháp 1992 do 72 nhân sĩ chủ xướng, gọi tắt là Kiến nghị 72 theo yêu cầu của chính các vị này, đã được hơn 5000 người ký tên ủng hộ vào lúc bài này được viết ra. Đó là một kết quả tích cực, tương tự như Tuyên Ngôn 8406 trước đây, trong đó một số đông đảo người Việt Nam đã công khai lên tiếng muốn chấm dứt độc quyền của ĐCSVN.
Kiến nghị 72 đã chia rẽ các bạn tôi thành hai phe, một phe ủng hộ và một phe không ủng hộ. Điều đáng nói cả hai phe đều có những nhận định gần như nhau.
Trước hết là về hiến pháp.
Hiến pháp là hợp đồng sống chung của một dân tộc. Nó xác định chúng ta muốn sống với nhau như thế nào và xây dựng với nhau tương lai chung nào. Nó có thể được viết thành văn bản hay không nhưng nó bao giờ cũng là điều quan trọng nhất đối với một quốc gia. Từ đó có ít nhất hai hệ luận.
Hệ luận thứ nhất là mọi người Việt Nam phải có chỗ đứng và tiếng nói ngang nhau khi thảo luận về hiến pháp. Không được có tiếng nói tương đương với bị loại bỏ, chỉ có tiếng nói phụ họa tương đương với bị khinh bỉ và áp bức. Như vậy thảo luận về hiến pháp là quyền trên đó ta không thể nhân nhượng. Không thể có quan hệ xin-cho. Không ai có thể chối cãi một thực tế là đảng cộng sản có bạo lực và đã dựa vào bạo lực này để tước đoạt nhiều quyền cơ bản của nhân dân, cư xử không khác một lực lượng chiếm đóng. Chúng ta không thể phủ nhận thực trạng đáng phẫn nộ này trong khi chưa thay đổi được nó, nhưng không phủ nhận không có nghĩa là chấp nhận. Trên hiến pháp không thể có vấn đề yêu cầu và kiến nghị. Một bản lên tiếng chung phù hợp hơn. Vả lại chúng ta đều biết rằng ban lãnh đạo cộng sản sẽ bỏ ngoài tai tất cả.
Hệ luận thứ hai là hiến pháp không phải là một văn bản mà ta có thể viết ra sau một vài ngày tìm hiểu và suy nghĩ. Tại mọi nước dân chủ phát triển, như nước Pháp nơi tôi đang sống, đều có những chuyên gia về luật hiến pháp. Tôi được biết một vài người trong họ. Đó là những người sau khi dành hàng chục năm để học hỏi và nghiên cứu về luật hiến pháp đã dành phần còn lại của đời mình để quan sát ảnh hưởng của từng chọn lựa của hiến pháp trên xã hội và rút kinh nghiệm. Tuy vậy họ rất thận trọng khi nói về hiến pháp. Đọc qua bảy kiến nghị và nhất là bản Dự Thảo Hiến Pháp 2013 người ta có thể thấy rõ là sự thận trọng đó đã vắng mặt trong Kiến nghị 72. Bản kiến nghị đã có thể soạn thảo một cách ngắn gọn và thuyết phục hơn.
Có những điều dù rất quan trọng cũng không cần và không nên đưa vào hiến pháp vì chỉ là những vấn đề hoặc thủ tục hoặc của một giai đoạn.
Hòa giải và hòa hợp dân tộc là điều tối cần thiết. Anh em Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên chúng tôi đã là những người đầu tiên sau ngày 30/04/1975 chủ trương lập trường này và đã gặp nhiều khó khăn nhưng chúng tôi vẫn kiên định. Vấn đề quan trọng đến nỗi chúng tôi đã đề nghị một đạo luật được biểu quyết qua trưng cầu dân ý. Chúng tôi chỉ có thể hoan nghênh những ai chủ trương hòa giải dân tộc. Nhưng dầu sao đó cũng chỉ là vấn đề của một giai đoạn lịch sử chứ không phải là một điều để đưa vào hiến pháp.
Thủ tục bầu cử cũng thế, chỉ nên là đối tượng của một luật bầu cử chứ không phải là của hiến pháp vì có những điều bắt buộc phải thay đổi, thí dụ như sau một cải tổ hành chính cần thiết, và không thể sửa đổi hiến pháp quá thường xuyên. Vả lại cách bầu cử quốc hội trong dự thảo hiến pháp này cũng không ổn. Thí dụ như qui định phải thu thập đủ 10.000 chữ ký ủng hộ để được ra ứng cử là quá đáng, gần như là một sự cấm đoán cho những người không có hàng tỷ đồng để vận động. Hay qui định hễ một sắc tộc thiểu số nào có quá 20% dân số trong một tỉnh thì phải có một thượng nghị sĩ trong khi mỗi tỉnh chỉ có hai thượng nghị sĩ. Làm thế nào để xác định sắc tộc –vĩnh viễn từ thế hệ này qua thế hệ khác hay có thể thay đổi?- của mỗi người? Không dễ, không cần và không nên. Trong một hệ thống bầu cử lương thiện và tự do một cộng đồng đông đảo, dù sắc tộc hay tôn giáo hay văn hóa, tự nhiên có trọng lượng.
Đó chỉ là vài thí dụ điển hình.
Và bên cạnh những điều đúng Dự Thảo Hiến Pháp 2013 của Kiến nghị 72 cũng có những chọn lựa rất vội vã.
Chế độ tổng thống được đưa ra như một lẽ tự nhiên. Do một tình cờ lịch sử hai nước dân chủ mà chúng ta tiếp xúc nhiều nhất là Mỹ và Pháp lại cũng là hai nước dân chủ phát triển duy nhất trên thế giới theo chế độ tổng thống. Từ đó nảy sinh ra một phản xạ quen thuộc của trí thức Việt Nam là nghĩ ngay tới chế độ tổng thống khi nói về dân chủ, dù đây là một chế độ vừa dở vừa nguy hiểm. Nó rất dễ đưa tới tham nhũng và độc tài, hoặc xung đột bế tắc giữa lập pháp và hành pháp. Chế độ tổng thống của Pháp được tất cả các chuyên gia hiến pháp đánh giá là một sai lầm to lớn của tướng De Gaulle. Mỹ là nước duy nhất trên thế giới mà chế độ tổng thống đã thành công, nhưng đó chủ yếu là nhờ hai yếu tố: một xã hội dân sự vốn rất mạnh từ thời lập quốc và một tổ chức tản quyền rất dứt khoát. Trong trường hợp một nước nghèo, chưa có truyền thống dân chủ, xã hội dân sự còn rất yếu, lại tập trung quyền hành như Việt Nam chế độ tổng thống gần như chắc chắn đưa tới độc tài và tham nhũng. Vả lại chính chúng ta cũng  đang nếm hương vị đầu tiên của một chế độ tổng thống với ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhiều quyền lực hơn cả bộ chính trị đảng cộng sản. Ai hài lòng?
Một thiếu sót lớn khác của Kiến nghị 72 là không hề nói đến tản quyền. Các chính quyền địa phương, mà đơn vị cơ sở là xã theo dự thảo hiến pháp của kiến nghị, chỉ có những quyền hành chính không đáng kể. Mặc nhiên Kiến nghị 72 chấp nhận mô hình tập quyền trung ương. Trái với một thành kiến sai nhưng khá lan tràn tại Việt Nam, công thức tập quyền trung ương không bảo đảm thống nhất đất nước mà còn đưa tới chênh lệch giữa các vùng và tệ sứ quân như ta có thể đã bắt đầu thấy. Tản quyền là xu hướng áp đảo của thời đại này và là kết luận của hơn hai thế kỷ thử nghiệm dân chủ. Thật đáng ngạc nhiên khi nhóm Kiến nghị 72 không biết đến. Càng ngạc nhiên hơn nữa khi họ đồng thời cũng đề nghị một quốc hội gồm hai viện (với một thượng nghị viện trong đó mỗi tỉnh đều có hai đại biểu dù dân số khác nhau). Tại sao phải có hai viện? Thực ra thượng viện chỉ có ở những nước tản quyền và có mục đích để các địa phương dù trọng lượng kinh tế và dân số khác nhau vẫn có được tiếng nói ngang nhau trong một số trường hợp. Thượng viện, có thể gọi là viện lãnh thổ, chỉ có lý do hiện hữu ở những nước tản quyền. Không có tản quyền thì thượng viện vô nghĩa và vô ích.
Thể chế chính trị, chính quyền trung ương cũng như các chính quyền địa phương, là những đề tài quan trọng và phức tạp vượt khuôn khổ của bài này. Tôi sẽ đề nghị một số tài liệu để độc giả có thể tham khảo (1). Những nhận xét trên đây chỉ có mục đích minh họa một nhận định: hiến pháp là điều rất hệ trọng cần được nghiên cứu và thảo luận đến nơi đến chốn. Không thể vội vã viết ra một hiến pháp.
còn tiếp