Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2011

Cù Huy Hà Vũ: Từ góc nhìn của một người Việt hải ngoại (trích)

Giáo
Trần Chung Ngọc


Giáo sư Trần Chung Ngọc, từng phục vụ trong quân đội
Sài Gòn 8 năm. Ông nhận học bổng du học tại Mỹ vào năm 1967. Năm 1972 ông trở
về giảng dạy tại một số trường đại học ở Sài Gòn. Đến năm 1975 ông sang Mỹ làm nghiên
cứu sinh rồi định cư tại Mỹ cho đến nay.


Về mấy nhận định của
Cù Huy Hà Vũ


Ông Vũ phát ngôn: “Không có
Đảng Cộng sản Việt Nam thì
độc lập dân tộc và thống nhất đất nước vẫn cứ đến với người Việt Nam như lịch sử
đã minh chứng trong suốt 2.000 năm qua… Chắc chắn Hai Bà Trưng, Lý Bí, Triệu
Quang Phục, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần
Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ không phải là Đảng Cộng sản Việt Nam
hay Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khi tiến hành thành công các cuộc
chiến tranh đánh đuổi quân xâm lược phong kiến Trung Hoa để giành độc lập dân
tộc hay để thống nhất đất nước”.


Tôi nghĩ rằng, đầu óc của Cù
Huy Hà Vũ quả thật thuộc loại bất bình thường. Tất cả những nhân vật lịch sử
của Việt Nam
ông Vũ nêu trên đều thuộc những thời đại Đảng Cộng sản chưa ra đời, vậy tất
nhiên họ “không phải là Đảng Cộng sản”. Nhưng thử hỏi, không có Đảng Cộng sản
Việt Nam
thì chế độ nô lệ thực dân Pháp có cáo chung không?


Trong hơn 80 năm dưới sự đô
hộ của Pháp, đã có biết bao cuộc nổi dậy của những người Việt Nam yêu nước
chống Pháp, nhưng có ai thành công không? Từ phong trào Cần Vương, Hoàng Hoa
Thám… cho đến Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, những người yêu
nước trên đã đạt được những kết quả gì trong công cuộc đánh đuổi thực dân Pháp?
Lê Lợi, Nguyễn Huệ… đâu, sao không thấy, mà chỉ thấy có Hồ Chí Minh, theo gương
các tiền nhân anh hùng của Việt Nam
là thành công đánh đuổi được thực dân Pháp. Độc lập dân tộc và thống nhất đất
nước vẫn cứ đến với người Việt Nam bằng cách nào, phải chờ bao nhiêu lâu nữa,
hay nằm hút thuốc phiện, há miệng chờ sung, hay chờ cho một Lê Lợi, Nguyễn Huệ
khác, không phải là Cộng sản xuất hiện? Đừng có quên là Pháp trở lại với mục
đích tái lập nền đô hộ ở Việt Nam
với 80% quân phí do Mỹ yểm trợ. Và cũng đừng quên là Mỹ đã đơn phương dựng lên
một chế độ bù nhìn Công giáo Ngô Đình Diệm ở Việt Nam ,
không chịu thi hành điều khoản Tổng tuyển cử vào năm 1956 trong Hiệp định Geneva .


Ông Cù Huy Hà Vũ có vẻ như
không hiểu mấy về lịch sử cận đại Việt Nam . Ông không biết rằng, cuộc
chiến thắng chống ngoại xâm của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản đã gây nên tiếng vang trên thế giới như thế nào. Ông công nhận những cuộc
chiến thắng quân Tàu ngoại xâm của Việt Nam
trong những thời trước nhưng lại muốn phủ nhận công chiến thắng quân ngoại xâm
Pháp rồi Mỹ của Đảng Cộng sản Việt Nam … Không thể dựa vào những chuyện
của chính quyền ngày nay mà ông không đồng ý để phủ nhận những công trên của
Đảng Cộng sản…


Ông Vũ còn nói: “Khi nói
“giải phóng miền Nam ” thì
không thể không xác định giải phóng miền Nam khỏi ai, khỏi cái gì. Chắc chắn
không phải “giải phóng miền Nam” khỏi sự chiếm đóng của Hoa Kỳ vì ngày
30-4-1975, quân đội Cộng sản nhận sự đầu hàng của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa
Dương Văn Minh, đó là chưa kể Hoa Kỳ đã rút hết quân khỏi miền Nam từ năm 1973
theo Hiệp định Paris”.


Nếu ông Cù Huy Hà Vũ không
hiểu “giải phóng miền Nam” là giải phóng khỏi ai và giải phóng khỏi cái gì thì
không nên đặt thành vấn đề xác định, vì ông còn thiếu một thắc mắc là “giải
phóng miền Nam” để làm gì? Hoa Kỳ chưa bao giờ chiếm đóng miền Nam, chỉ dựng
lên miền Nam rồi khi tình hình nguy ngập, đổ nửa triệu quân vào đánh giúp miền
Nam để miền Nam khỏi rơi vào tay Cộng sản và khi thấy không thể thắng được và
không còn muốn giúp nữa thì Hoa Kỳ tháo chạy (từ của Nguyễn Tiến Hưng) hay văn
vẻ lịch sự hơn là “rút lui trong danh dự”. Thực tế là trong miền Nam còn có Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và đa số người dân miền Nam ủng hộ mặt trận
này, nếu không, chẳng bao giờ Cộng sản có thể thành công “giải phóng miền Nam”
được.


Lẽ dĩ nhiên một số người ở
miền Nam, vì hoàn cảnh đất nước nên dù muốn dù không cũng thuộc miền Nam, trong
đó có tôi, chẳng muốn mình được giải phóng. Nhưng không muốn là một chuyện mà
chuyện thống nhất quốc gia để hợp với lòng dân, ít ra là đa số người dân, lại
là một chuyện khó tránh, vì người dân không muốn cảnh Trịnh – Nguyễn phân tranh
trong lịch sử tái diễn. Hơn nữa, Cộng sản đã lãnh đạo người dân kháng chiến
chống Pháp, tốn bao xương máu, đi đến chiến thắng Điện Biên Phủ, ký Hiệp định Geneva
với hy vọng thống nhất đất nước qua giải pháp chính trị Tổng tuyển cử năm 1956,
nhưng bị Mỹ dựng lên miền Nam, cường quyền thắng công lý, không thi hành điều
khoản Tổng tuyển cử vào năm 1956 quy định trong Hiệp định Geneva.


Tôi cũng là người đã tháo chạy
trước ngày 30/4/1975 vài ngày, nhưng với lương tâm trí thức, chẳng thể nào phủ
nhận diễn biến lịch sử nó là như vậy.


Vài lời kết luận


Tôi ở trong quân đội quốc gia
cho nên năm 1954 đã di cư vào Nam .
Tôi đã phục vụ trong quân lực của miền Nam
tổng cộng là 8 năm rưỡi và đã phục vụ trong ngành Giáo dục Việt Nam cho đến
ngày cuối. Tôi nghĩ mình ở đâu, làm đầy đủ bổn phận công dân ở đấy là đủ, không
có gì phải hổ thẹn với lương tâm. Nhưng cuộc chiến Quốc – Cộng đã ngưng 36 năm
trước đây rồi, cho nên trong đầu óc tôi không còn Quốc – Cộng mà chỉ còn người Việt
Nam. Khi nghiên cứu về lịch sử thì chúng ta phải hiểu rõ là những sự thật lịch
sử thì không có tính cách bè phái hay Quốc – Cộng. Và dù những sự thật đó có
làm chúng ta đau lòng cách mấy chúng ta cũng phải chấp nhận. Đó là sự lương
thiện trí thức của con người.


Nhìn lại lịch sử, chúng ta có
bao giờ nghĩ rằng các cường quốc Tây phương thực tâm vì nhân quyền mà ủng hộ sự
tranh đấu cho nhân quyền của chúng ta hay không? Nói như vậy không có nghĩa là
chúng ta thôi không tranh đấu cho nhân quyền nữa. Nhưng vấn đề là làm sao tạo
được uy tín, được sự ủng hộ của người dân mà không có bóng dáng của bất cứ một
cá nhân hay tổ chức nào ở ngoài, chỉ như vậy mới có thể đi đến thành công.


Dựa vào thế lực ngoại quốc để
tranh đấu cho nhân quyền ở Việt Nam, hoặc liên hệ truyền thông với những tổ
chức ở nước ngoài mà mọi người đều biết là không có thiện cảm với chính quyền
Việt Nam, tôi cho là những hình thức tranh đấu không có mấy hiệu quả, hơn nữa
có thể gây nên những phản tác dụng đối với chính quyền Việt Nam hiện thời, một
chính quyền rất nhạy cảm trước mọi hành động có tính cách xen vào nội bộ Việt
Nam. Kết quả những công cuộc vận động ngoại quốc để làm áp lực đối với chính quyền
Việt Nam sẽ không mang lại kết quả khả quan nào, vì những người Việt yêu nước,
bất kể là chính kiến khác nhau như thế nào, đều không thể ủng hộ đường lối nhờ
sự can thiệp của người ngoại quốc vào những chuyện bất đồng ý kiến giữa người
Việt với nhau.


Nhìn vào quá khứ, chúng ta
thấy đã có biết bao nghị quyết nọ kia, kể cả nghị quyết của Liên hiệp Âu châu
và cả danh sách CPC, dự luật về nhân quyền cho Việt Nam của Hạ viện Mỹ, nhưng
kết quả là bao nhiêu, chính quyền Việt Nam lùi một bước tiến hai bước và cứ làm
theo ý. Tại sao? Vì chính quyền Việt Nam thừa biết rằng, tất cả chỉ là những
tài liệu chính trị chống Việt Nam và cũng thừa biết chiêu bài nhân quyền của
các cường quốc Âu Mỹ là đạo đức giả, có tính cách lưỡng chuẩn (double
standard), thường để che đậy những mưu đồ chính trị sau bức bình phong nhân
quyền. Những cuộc vận động ngoại nhân để làm áp lực đối với chính quyền Việt Nam
mà không nghĩ tới những hậu quả nghiêm trọng có thể xâm phạm đến trật tự, an
ninh và chủ quyền quốc gia, là những bước đi chính trị vụng về, thiếu trí tuệ,
không nghĩ đến truyền thống yêu nước của người Việt Nam.


Ông Hà Vũ tuyên bố: “Đa đảng
là con đường duy nhất để thực hiện một nước Việt Nam thực sự dân chủ, toàn vẹn lãnh
thổ, giàu mạnh, công bằng và văn minh”. Đây là một câu nói vu vơ, ai nói cũng
được. Là một trí thức đã được đào tạo bài bản ở Tây, ông Vũ phải chỉ ra một con
đường là Việt Nam sẽ đi đến đa đảng và dân chủ như thế nào, đa đảng là bao
nhiêu đảng, điều kiện để lập đảng là như thế nào, thế nào mới có thể gọi là một
đảng, cá nhân nào, tổ chức nào có quyền lập đảng và trong bao lâu hay ngay lập
tức với những luận cứ chặt chẽ về tình trạng xã hội hiện nay, về hình thức dân
chủ, về giới hạn của nhân quyền, về giới hạn của tự do ngôn luận, về tinh thần trách
nhiệm của người dân trước luật pháp, về trình độ dân trí, có ngoại quốc nhúng
tay vào không…


Ai cũng biết tự do ngôn luận,
tự do tôn giáo, dân chủ là tốt nhưng vấn đề là tự do tới mức nào và hình thức
dân chủ ra sao. Không thể đi tới dân chủ mà không có sửa soạn. Làm sao để người
dân thấm nhuần được ý thức một nền dân chủ riêng cho Việt Nam , trách
nhiệm người dân trong thể chế dân chủ, bổn phận người dân góp sức cho dân chủ…
Tất cả đều phải đi qua một quá trình giáo dục cần thời gian và tất cả đều phải
rõ ràng trong giai đoạn sửa soạn tiến tới dân chủ để tránh những hành động vô
cương vô pháp gây hỗn loạn trong xã hội, cảnh lạm dụng tự do ngôn luận, lạm dụng
quyền tự do tôn giáo, hoặc cảnh “lắm thầy thối ma”. Đa đảng và dân chủ nghe hay
lắm! Nhưng không đơn giản như chỉ cần tuyên bố đa đảng là con đường duy nhất để
thực hiện một nước Việt Nam
thực sự dân chủ. Mặt khác, trên thế giới ngày nay tôi đố ông Vũ tìm đâu ra một
quốc gia thực sự dân chủ.
Ông Cù Huy Hà Vũ cũng có vài hành động tốt, thí dụ như kiện Ủy ban Nhân dân tỉnh
Thừa Thiên – Huế về quyết định cấp phép đầu tư xây dựng Dự án Khách sạn Life
Resort trên đồi Vọng Cảnh. Nhưng phần lớn là ông đi kiện lung tung mà không suy
nghĩ và lang bang vào những chuyện không rõ ràng như đòi dân chủ, đa nguyên đa
đảng mà không đưa ra một mô thức nào cho dân chủ, đa nguyên đa đảng thích hợp
với hoàn cảnh chính trị Việt Nam ngày nay và mặt khác những chuyện làm lung
tung của ông chứng tỏ trình độ hiểu biết của ông còn thiếu sót nhiều cho nên đã
có phản tác dụng, làm loãng đi giá trị của những việc làm có ích của ông.