* Lọat entry này trích- giản- lược từ một tiểu luận cùng
tên.
* LGBT là biết tắt
của các chữ :Lesbian Gay Bisexual Transgender (đồng tính nữ, đồng tính nam, lưỡng
giới, chuyển giới).
Trên
phạm vi tòan cầu, các cấp độ chấp nhận LGBT là vô cùng đối nghịch. Olymic mùa
đông Sochi 2014, Mỹ nâng luật chống đồng tính ái ở Nga thành vấn đề lớn với
công luận. Chính quyền Nigeria và Uganda hiện đang lên án quốc tế khi phản đối dự luật
chống đồng tính của mình. Đầu này bán cầu,
hợp pháp hóa đồng tính đã trở thành tiêu chuẩn quốc gia thì đầu kia, không ít
chính phủ nỗ lực để chống lại sự lây lan của "văn hóa đồi trụy phương
Tây", thể hiện qua các hoạt động đồng tính ái.
Lọat
entry này lần lượt sẽ viết về:
1.Giản
lược lịch sử cộng đồng LGBT tại Việt Nam, đi ngang qua thời Nho giáo,
đổi mới sau chiến tranh và đến thời truyền thông xã hội thống trị hiện
nay.
2.
Thảo luận về các văn bản quy phạm liên quan đến đồng tính ái đang lưu hành.
3.
Phân tích các luồng tư tưởng thể hiện trên các phương tiện truyền thông về đồng
tính ái.
1.
Lịch
sử tâm lý xã hội Việt gắn mật thiết với hệ thống triết học của Nho giáo, từ
Trung Quốc. Khuynh hướng tình dục và giới tính được quy định hết sức nghiêm ngặt
theo thuyết nhị phân: nam giới so với nữ giới, nam tính so với nữ tính, âm so với
dương. Vai trò xã hội và trạng thái cho các cá nhân được xác định bởi tự nhiên.
Đàn ông và phụ nữ không thách thức những gì là trời phú. Hệ thống triết học này không có chỗ cho một định nghĩa giới tính thứ ba.
Nho
giáo cũng cấm kị công khai tình dục trên các phương diện hành xử trong xã hội cũng
như thảo luận trên truyền thông, đặc biệt đối với phụ nữ.
Đồng
tính ái và cộng đồng LGBT vô hình vài
trăm năm (nhân vật lịch sử sớm nhất đồng tính ái là Lý Thường Kiệt) cho đến thời
kỳ hậu chiến.
Giới
y học Việt Nam, bắt đầu ứng dụng các kết quả nghiên cứu của Hiệp hội tâm lý Mỹ từ
những năm 1960 khi không còn xem đồng tính ái như một rối loạn tâm lý có thể được
"chữa khỏi", mà đó là một dạng sinh lý do tự nhiên sinh ra. Tuy
nhiên, vẫn còn một khoảng cách cực lớn trong sự hiểu biết xã hội và học thuật.
Sau
năm 1989, đất nước bước vào thời kì đổi mới lấy mục đích phát triển kinh tế làm trọng tâm.
Chính phủ thực hiện hàng lọat chương trình tuyên truyền, khuyến khích việc loại
bỏ "tệ nạn xã hội" bao gồm mê tín dị đoan, nghiện hút, mại dâm cũng
như đồng tính ái vì quan niệm cho rằng, đây là sản phẩm văn hóa đồi trụy,
phát sinh khi kinh tế phát triển và mở cửa với văn hóa phương Tây.
Không
một quốc gia nào biệt lập mãi mãi. Những năm 1990, toàn cầu hóa mang lại không
chỉ việc lưu thông hàng hóa mà còn là những tư tưởng và hình ảnh của lối sống
khác, ý thức hệ khác, bao gồm cả các xu hướng tình dục và giới tính vốn đã tồn
tại trong thực tế.
Cuộc
hôn nhân đồng tính đầu tiên đã diễn ra vào tháng Tư năm 1997 tại Thành phố Hồ
Chí Minh, làm dấy lên các cuộc phản đối và tức giận. Đồng tính ái chưa
bao giờ là bất hợp pháp ở Việt Nam dù các cuộc hôn nhân đồng tính chưa được luật
hóa bảo vệ. Nó được xếp sang phạm trù đạo đức và chịu các chế tài đạo đức cộng đồng.
Xã
hội dân sự bắt đầu lấp đầy khoảng trống để lại bởi chính quyền trung ương.
Nghệ
thuật, dẫn đầu là văn học, bắt đầu trau chuốt với hình ảnh của bản sắc đồng
tính được mô tả trong một ánh sáng phức tạp hơn và dĩ nhiên, vẫn phải diễn đạt
theo cách né tránh hệ thống tuyên truyền khổng lồ xếp nó vào "tệ nạn xã hội".
Người
mở đầu và góp một tiếng nói có ảnh hưởng sâu – rộng thay đổi tư duy tuyên truyền
cũng như nhìn nhận xã hội về LGBT là nhà văn Bùi Anh Tấn, với cuốn tiểu thuyết Thế giới
không có Đàn bà (xuất bản năm 2000), viết về một cặp vợ chồng đồng tính. Ông là Hội viên
hội nhà văn Việt nam và biên chế thuộc Bộ công an. Cuốn tiểu thuyết này sau đó đã
giành được nhiều giải thưởng.