Bài từ nhà Chu Giang Phong- nick name của nhà thư pháp Trịnh Tuấn
Tôi sinh ra trên dải
đất cỗi cằn, nằm nem nép ven bờ đê sông Chu, đoạn đi qua huyện Thọ Xuân của Xứ
Thanh. Mảnh đất ấy xưa có bậc dị nhân đi qua, đã nói rằng: Đất này địa thế trắc hiểm, khí tụ thiên địa, lưỡng hà bao bọc, tứ sơn bủa
vây. Bốn mùa rõ rệt xuân, hạ, thu, đông. Tấn công thì khó, phòng thủ thì dễ. Đất
này chỉ hợp khi có biến, không hợp buổi thái bình. Lại thêm, trời đất ưa thử
lòng người, càng người hiền càng ưa bị thử, nên dù là phúc địa sinh nhân kiệt,
nhưng phận số sẽ lao đao. Chiếu theo dòng chảy của sông đoạn đi qua làng, chính
dòng đâm vào sinh huyệt, phải đủ 60 năm sau dòng nắn chại mạch, may ra người
trong làng mới thoát cảnh truân chuyên... Lời ấy chưa xa mà ngẫm lại không sai.
Đoạn sông nằm ngay sau nhà tôi. Tôi đã có dịp lần mò theo con sông huyền thoại lên đến gần Sầm Nưa, nhưng tự thấy ít chỗ đẹp hơn. Có chỗ thủy tựa sơn nhưng ác hiểm, có nơi phong cảnh hữu tình nhưng tà khí lại xông thiên. Hiếm có đoạn nào núi và sông ôm ấp chở che, tựa nương, san sẻ như khúc sông này. Hồi còn trẻ, mỗi đợt lũ qua, nhìn những bãi ngô xanh mướt, rồi những triền hoa cải vàng suộm chuỗi tình, tôi hay ví giòng sông quê là "Giòng sông độ lượng". Sông Chu quê tôi hay còn gọi là sông Lường [ngôn ngữ Tày, Thái gọi là Nậm Sam; nguyên gốc gọi là sông Sủ, người Pháp viết thành Chu], là phụ lưu lớn nhất của sông Mã. Đoạn sông vắt qua khu vực núi Mục Sơn là một đoạn sông uy mãnh, tạo thế thành hào. Mục Sơn có nghĩa là mắt núi. Đứng trên đỉnh núi mà nhìn ra bốn hướng, xa có thể thấy quân địch cách hàng mười dặm, gần có thể bao quát quân lương. Dòng sông ôm chân tựa như hào sâu tùy biến theo dòng, có thể dùng làm đường thủy vận lương, có thể dùng làm thủy lộ cho thủy quân du kích. Nếu chẳng phải thế, ắt nghĩa quân Lam Sơn không chọn đất ấy mà tạo nên sự nghiệp lẫy lừng. Sức mạnh của dòng Chu giang là một sức mạnh uy hùng, nếu như biết dùng và biết trân trọng nó. Kẻ làm tướng mà không hiểu trời đất, núi sông, thì cũng chỉ là tướng tồi mà thôi. Ví như việc dùng binh, đâu có phải chỉ thao luyện sĩ tốt gươm đao, mà phải biết thao luyện cả thiên binh, địa binh, sơn binh, giang binh, lâm binh.... nữa. Biết nắng mưa bão tố mà dùng đúng lúc là đã nắm được thiên binh. Biết đất lành, đất hiểm, địa thế ngoài trong là đã nắm được địa binh. Biết núi thấp, núi cao, núi nào tụ lương, núi nào nào mai phục, ấy là đã nắm được sơn binh. Biết sông khúc nào tác chiến, khúc nào phòng thủ, khi nào nước lên, khi nào nước xuống, ấy coi như đã nắm được giang binh rồi. Sức của trời mới nhiều mới quý, chứ sức người thì có đáng là bao. Người chỉ ngang tầm với trời đất ở trí, ở tâm thôi.
Ngặt thay, giang sơn cẩm tú thường đi với bần hàn. Phàm cứ nơi nào nghèo thì dòm trông thấy đẹp, nơi nào đẹp thì nhác trông từ xa cũng đã thấy nghèo. Mảnh đất quê tôi: "Bốn mặt núi rừng sông cách núi bưng |một cõi giang sơn ngộn đầy trong gió bão | Những thi sĩ cầm ngang ngọn giáo | Vẽ lên trời sắc nhọn những vần thơ"... Hữu Nguyện từng thốt lên như vậy. Còn về vẻ đẹp, có vị tiên sinh họ Nguyễn, cảm thức sinh tình, ưu ái mà ban thi rằng: "Chu giang nước chảy quanh dòng | Lường giang cũng kịp một vòng non Lam". Có lúc, ngỡ như trong mỗi thớ đất cày đều ngổn ngang truyền thuyết, vậy mà chỉ có văn chương là nhiều hơn lúa gạo. Dân tôi, dù là nơi được ví là "tọa-độ-mật", một vùng nguyên liệu mía đường cung cấp sản lượng mía hàng năm không biết bao nhiêu tấn, thế mà cái gọi là "an ninh lương thực" vẫn nơm nớp lòng bà con mỗi bận giáp hạt lưng mùa. Chỉ có giòng sông là độ lượng. Giòng sông cứ như giòng sữa mẹ, từ bi vắt sữa nuôi làng và nuôi cả những hồn thơ kiêu bạc.
Nhiều người quê tôi vì tự ti bởi cái nghèo, cái tệ nạn đủ kiểu mà có khi không dám nhắc đến quê nhà khi xa xứ. Tôi thì thấy tự hào lắm lắm. Không có dịp thì thôi, hễ có dịp là mời bằng hữu ghé quê chơi. Nghèo cũng là một cái lễ đãi người hiền trong thiên hạ. Những kẻ chẳng phải là người hiền trong thiên hạ mới chuộng phú quý phụ vinh, bậc hiền sĩ đâu vì cái nghèo mà quên chân tình cho được. Tin ở người, tin ở trời thì trời và người đều là bạn.
Đoạn sông nằm ngay sau nhà tôi. Tôi đã có dịp lần mò theo con sông huyền thoại lên đến gần Sầm Nưa, nhưng tự thấy ít chỗ đẹp hơn. Có chỗ thủy tựa sơn nhưng ác hiểm, có nơi phong cảnh hữu tình nhưng tà khí lại xông thiên. Hiếm có đoạn nào núi và sông ôm ấp chở che, tựa nương, san sẻ như khúc sông này. Hồi còn trẻ, mỗi đợt lũ qua, nhìn những bãi ngô xanh mướt, rồi những triền hoa cải vàng suộm chuỗi tình, tôi hay ví giòng sông quê là "Giòng sông độ lượng". Sông Chu quê tôi hay còn gọi là sông Lường [ngôn ngữ Tày, Thái gọi là Nậm Sam; nguyên gốc gọi là sông Sủ, người Pháp viết thành Chu], là phụ lưu lớn nhất của sông Mã. Đoạn sông vắt qua khu vực núi Mục Sơn là một đoạn sông uy mãnh, tạo thế thành hào. Mục Sơn có nghĩa là mắt núi. Đứng trên đỉnh núi mà nhìn ra bốn hướng, xa có thể thấy quân địch cách hàng mười dặm, gần có thể bao quát quân lương. Dòng sông ôm chân tựa như hào sâu tùy biến theo dòng, có thể dùng làm đường thủy vận lương, có thể dùng làm thủy lộ cho thủy quân du kích. Nếu chẳng phải thế, ắt nghĩa quân Lam Sơn không chọn đất ấy mà tạo nên sự nghiệp lẫy lừng. Sức mạnh của dòng Chu giang là một sức mạnh uy hùng, nếu như biết dùng và biết trân trọng nó. Kẻ làm tướng mà không hiểu trời đất, núi sông, thì cũng chỉ là tướng tồi mà thôi. Ví như việc dùng binh, đâu có phải chỉ thao luyện sĩ tốt gươm đao, mà phải biết thao luyện cả thiên binh, địa binh, sơn binh, giang binh, lâm binh.... nữa. Biết nắng mưa bão tố mà dùng đúng lúc là đã nắm được thiên binh. Biết đất lành, đất hiểm, địa thế ngoài trong là đã nắm được địa binh. Biết núi thấp, núi cao, núi nào tụ lương, núi nào nào mai phục, ấy là đã nắm được sơn binh. Biết sông khúc nào tác chiến, khúc nào phòng thủ, khi nào nước lên, khi nào nước xuống, ấy coi như đã nắm được giang binh rồi. Sức của trời mới nhiều mới quý, chứ sức người thì có đáng là bao. Người chỉ ngang tầm với trời đất ở trí, ở tâm thôi.
Ngặt thay, giang sơn cẩm tú thường đi với bần hàn. Phàm cứ nơi nào nghèo thì dòm trông thấy đẹp, nơi nào đẹp thì nhác trông từ xa cũng đã thấy nghèo. Mảnh đất quê tôi: "Bốn mặt núi rừng sông cách núi bưng |một cõi giang sơn ngộn đầy trong gió bão | Những thi sĩ cầm ngang ngọn giáo | Vẽ lên trời sắc nhọn những vần thơ"... Hữu Nguyện từng thốt lên như vậy. Còn về vẻ đẹp, có vị tiên sinh họ Nguyễn, cảm thức sinh tình, ưu ái mà ban thi rằng: "Chu giang nước chảy quanh dòng | Lường giang cũng kịp một vòng non Lam". Có lúc, ngỡ như trong mỗi thớ đất cày đều ngổn ngang truyền thuyết, vậy mà chỉ có văn chương là nhiều hơn lúa gạo. Dân tôi, dù là nơi được ví là "tọa-độ-mật", một vùng nguyên liệu mía đường cung cấp sản lượng mía hàng năm không biết bao nhiêu tấn, thế mà cái gọi là "an ninh lương thực" vẫn nơm nớp lòng bà con mỗi bận giáp hạt lưng mùa. Chỉ có giòng sông là độ lượng. Giòng sông cứ như giòng sữa mẹ, từ bi vắt sữa nuôi làng và nuôi cả những hồn thơ kiêu bạc.
Nhiều người quê tôi vì tự ti bởi cái nghèo, cái tệ nạn đủ kiểu mà có khi không dám nhắc đến quê nhà khi xa xứ. Tôi thì thấy tự hào lắm lắm. Không có dịp thì thôi, hễ có dịp là mời bằng hữu ghé quê chơi. Nghèo cũng là một cái lễ đãi người hiền trong thiên hạ. Những kẻ chẳng phải là người hiền trong thiên hạ mới chuộng phú quý phụ vinh, bậc hiền sĩ đâu vì cái nghèo mà quên chân tình cho được. Tin ở người, tin ở trời thì trời và người đều là bạn.